Tác động của nghiên cứu công lên hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo của Singapore
07/11/2017
Tác động của nghiên cứu công lên hệ sinh thái khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo của SingaporeVới đầu tư khổng lồ trong việc thực hiện chiến lược xây dựng hệ sinh thái đổi mới và kinh doanh của Singapo trong thập kỷ qua,việc đánh giá tác động của nó đối với nền kinh tế là rất quan trọng.Với đầu tư khổng lồ trong việc thực hiện chiến lược xây dựng hệ sinh thái đổi mới và kinh doanh của Singapo trong thập kỷ qua,việc đánh giá tác động của nó đối với nền kinh tế là rất quan trọng.
Các nghiên cứu về các chỉ số và phương pháp tác động chủ yếu tập trung vào các chỉ số đơn lẻ như bằng sáng chế hoặc xuất bản khoa học. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách nhận thức được rằng cuộc hành trình từ đầu tư vào các trường đại học/viện nghiên cứu công (IHL/PRI) để thực hiện nghiên cứu và đổi mới công dẫn đến tạo ra tác động lên công nghiệp và nền kinh tế là một quá trình dài và phức tạp liên quan đến nhiều giai đoạn với các bên liên quan và rủi ro khác nhau ở từng giai đoạn. Mặc dù các chỉ số như xuất bản phẩm và bằng sáng chế rất hữu ích để chứng minh sản phẩm sáng tạo của IHL/PRI, nhưng chúng không cho thấy các kiến thức cơ bản của các bằng sáng chế cuối cùng có trở thành sản phẩm mới được thương mại hóa hay không và như thế nào. Do đó, người ta thừa nhận rằng không có một chỉ số nào có thể đưa ra một bức tranh đầy đủ về tác động kinh tế của nghiên cứu khoa học công đối với hệ sinh thái khởi nghiệp và ĐMST.
Để đánh giá tác động toàn diện, Khung đo lường Tác động Nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp (RIE) được sử dụng trong A*STAR xem xét tính chất phức tạp của chuỗi giá trị RIE, để đo lường đầu ra trung gian và kết quả ở bốn giai đoạn khác nhau, gồm (a) sản phẩm sáng tạo của IHL/PRI, (b) sản phẩm thương mại hóa của IHL/PRI, (c) đổi mới sáng tạo của ngành/doanh nghiệp và (d) phát triển kinh tế. Hình 1 cung cấp một bản tóm tắt về khuôn khổ và các chỉ số thường được các nhà hoạch định chính sách công và doanh nghiệp sử dụng để đo lường tác động ở từng giai đoạn.
1. Sản phẩm sáng tạo của IHL/PRI
Chi tiêu NC&PT, đăng ký sáng chế và bằng sáng chế được cấp thường được sử dụng để đánh giá kết quả sáng tạo của IHL/PRI. Trong thập kỷ qua, chi tiêu NC&PT của Singapo từ 1.029,73 triệu đô la Singapo năm 2004 lên 2.338,71 triệu đô la Singapo năm 2014, với sự gia tăng tương ứng về đơn đăng ký sáng chế và bằng sáng chế được cấp lần lượt là từ 469 và 156 lên 707 và 196.
Trong cùng thời kỳ đó, số lượng công ty khởi nghiệp công nghệ tăng từ 2.800 lên 5.400 (SPRING, 2016). Mặc dù thừa nhận rằng các công nghệ giai đoạn đầu có mức độ không chắc chắn cao hơn so với giai đoạn sau, nhưng lợi ích của nó là lớn hơn rất nhiều. Rõ ràng rằng một nền khoa học tốt là rất quan trọng trong hệ sinh thái khởi nghiệp và ĐMST vì nó cung cấp nền tảng kiến thức/tài sản trí tuệ công nghệ mạnh mẽ cho các doanh nghiệp có thể có khả năng thay đổi cuộc chơi.
Do đó, khu vực công có vai trò quan trọng trong việc đầu tư vào các sản phẩm sáng tạo của các IHL/PRI, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ mang tính chiến lược đối với sự thịnh vượng của đất nước nhưng lại đòi hỏi thời gian đầu tư lâu dài hơn so với những lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể chấp nhận.
2. Kết quả thương mại hóa của IHL/PRI
Kết quả thương mại hóa của IHL/PRI ở Singapo đã có xu hướng tích cực trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2014. Thu nhập của các tổ chức này từ việc cấp phép (chuyển giao) các tài sản trí tuệ cho các công ty đã tăng lên từ 0,84 triệu đôla Singapo lên 4,99 triệu đôla, trong khi doanh thu từ các sản phẩm và quy trình được thương mại hoá của hoạt động NC&PT ở Singapo đã tăng từ 4,45 triệu lên 29,76 triệu đô la Singapo. Trong thập kỷ qua, chúng ta thấy sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các hướng nghiên cứu và các nhu cầu của ngành công nghiệp, và sự gia tăng tương ứng trong kết quả thương mại hóa của các trường đại học/PRI.
Tuy có sự gia tăng về số lượng khởi nghiệp công nghệ trong cùng thời kỳ, nhưng các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 50% doanh nghiệp mới đã ngừng hoạt động ở năm thứ năm tại Singapo. Mặc dù xu hướng tương tự cũng được thấy ở Hoa Kỳ, các tổ chức chuyển giao công nghệ có thể đóng một vai trò lớn hơn trong việc giúp các công ty khởi nghiệp giảm bớt rủi ro thương mại hoá các kết quả NC&PT công thông qua nâng cao mức độ sẵn sàng của công nghệ của họ để đáp ứng các yêu cầu về công nghiệp.
3. Đổi mới sáng tạo của ngành/công ty
Khung Đo lường tác động Nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp(RIE)
Trong khu vực tư nhân, Singapo cho thấy xu hướng tích cực của đầu vào đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp. Chi tiêu NC&PT của khu vực doanh nghiệp đã tăng từ 2.589,99 triệu đô la Singapo trong năm 2004 lên 5.215,66 triệu đô la Singapo vào năm 2014 và số đơn đăng ký sáng chế và bằng sáng chế được cấp tương ứng tăng từ 777 và 433 lên 1.131 và 707. Mức tăng tương ứng được ghi nhận trong kết quả đổi mới sáng tạo của các công ty cùng kỳ, tăng trưởng chắc chắn từ 202,33 và 14.925,22 triệu đô la Singapo lên 465,71 và 25.207,55 triệu đô la Singapo, tương ứng với thu nhập từ việc cấp phép các sáng chế và công nghệ mới của họ được phát triển ở Singapore và doanh thu từ các sản phẩm và quy trình được thương mại hoá của NC&PT được thực hiện ở Singapo.
Mặc dù có sự tăng trưởng tổng thể trong cả đầu vào và kết quả đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp, song NC&PT (khoảng 1,2% đến 1,8% GDP) của khu vực tư nhân vẫn còn nhiều dư địa để cải thiện, so với mức trung bình của OECD là 2,5% GDP (OECD 2013). Do đó cần phải tiếp tục xây dựng năng lực công nghệ và kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước thông qua đào tạo và các mạng lưới Ba đường xoắn (liên kết chính phủ - viện nghiên cứu công - doanh nghiệp).
4. Phát triển kinh tế
Các chỉ số thường được sử dụng để đo lường tác động đến cộng đồng hoặc nền kinh tế là nguồn nhân lực và việc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp khởi nghiệp từ năm 2004 đến năm 2014.
Trong giai đoạn này, tỷ lệ việc làm của các khởi nghiệp ở Singapo đã tăng từ 7,1% (156.500 nhân viên) lên 9,5% (345.400), trong khi số lượng nhà khoa học và kỹ sư của các khởi nghiệp đã tăng từ 18,935 lên 32,835 người.
Các doanh nghiệp khởi nghiệp trong cả lĩnh vực công nghệ và phi công nghệ đã tạo ra nhiều việc làm cho lực lượng lao động địa phương. Tuy chưa có số liệu về đóng góp của họ vào sản lượng, thu nhập quốc dân và GDP, nhưng với tầm quan trọng của các khởi nghiệp, những dữ liệu này cũng như những kết quả đổi mới của công ty (ví dụ như số lượng sản phẩm mới, doanh số bán sản phẩm mới) cần được thu thập, theo dõi, so sánh và phân tích để tạo điều kiện cho việc tăng cường liên tục các công cụ chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mới khởi nghiệp.
5. Nghiên cứu điển hình
Các nghiên cứu tình huống minh hoạ cho sự thành công của các phương pháp tiếp cận chiến lược của Singapo đối với cải tiến và thúc đẩy doanh nhân. Một trong những liên doanh hợp tác PPP đầu tiên của A*STAR là Chương trình Không gian vũ trụ, bắt đầu năm 2007.
Đây là một ví dụ về cấu trúc hợp tác "Nhiều tổ chức công với nhiều công ty", gồm 8 viện nghiên cứu công thuộc Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật (SERC) với một tập đoàn công nghiệp bao gồm các nhà Chế tạo Hàng không hàng đầu (OEM) và các công ty hàng không Singapo. Các dự án liên doanh có tính tiền cạnh tranh và phục vụ nhu cầu của ngành công nghiệp. Thông qua chương trình này, các công ty hàng không vũ trụ làm việc song phương với A*STAR về nghiên cứu hợp tác hoặc ủy thác. Một thành viên của tập đoàn là Rolls Royce, đã có mặt tại Singapo từ những năm 1950 và hiện chiếm hơn 15% sản lượng sản phẩm hàng không của quốc gia, với lực lượng lao động địa phương hơn 2.400 người. Công ty đã ký thoả thuận hợp tác đầu tiên với A*STAR năm 2004 và mối quan hệ này đã phát triển mạnh kể từ đó. Rolls Royce đã thành lập một Phòng thí nghiệm Hoàn thiện bề mặt cùng với Viện Công nghệ Chế tạo Singapo (SIMTech) của A*STAR. Hơn 75 dự án hợp tác đã được Rolls Royce và SIMTech phối hợp thực hiện.
Một câu chuyện thành công vang dội xuất phát từ DxD Hub là InvitroCue, một công ty cung cấp các dịch vụ phân tích sinh học sử dụng mô hình dựa trên tế bào và thuật toán hình ảnh. Công nghệ này bắt nguồn từ A*STAR, và được tiếp tục phát triển và xác nhận thông qua hợp tác với các công ty dược phẩm, các nhà nghiên cứu bệnh học và các nhà khoa học nghiên cứu dẫn đầu từ các trường đại học và viện nghiên cứu công. Được thành lập bởi doanh nhân giàu kinh nghiệm, Tiến sĩ Steven Fang, InvitroCue được thành lập vào năm 2012 như là một công ty khởi nguồn (spinoff) của A*STAR. Trong giai đoạn đầu, nó nhận được sự hỗ trợ của A*STAR. Công ty là đối tác ban đầu của DxD Hub khi sàn được triển khai vào năm 2014. Chỉ hai năm sau đó, vào tháng 1/2016, InvitroCue đã được niêm yết công khai trên Sở Giao dịch Chứng khoán Australia. Với mức vốn hóa thị trường trị giá 40 triệu đô la Singapo, công ty đã tăng gấp đôi doanh số bán hàng trong hai năm kể từ 2014. Chiến lược tiếp thị của công ty là bán các mô hình thử nghiệm dựa trên tế bào cho các công ty dược phẩm toàn cầu thông qua các hợp đồng hợp tác và các hợp đồng dịch vụ. Các khoản thu nhập được đảm bảo thông qua chiến lược này được sử dụng để hỗ trợ phát triển dịch vụ bệnh lý số, được triển khai thành công trong các công ty dược phẩm và các bệnh viện toàn cầu. Tầm nhìn "sinh ra ở quy mô toàn cầu" này được sự hỗ trợ của DxD Hub và mạng lưới Ba đường xoắn trong Hệ sinh thái khởi nghiệp và ĐMST của Singapo.
Visenze là một thành viên tích cực của cộng đồng Launchpad @ one-north. Khởi nghiệp này cung cấp giải pháp nhận dạng và tìm kiếm trực quan bằng máy học được phát triển từ các nghiên cứu sâu được tiến hành tại Trung tâm Tìm kiếm Tìm kiếm Cực trị NUS-Tsinghua. Sau khi được tách ra từ NUS vào năm 2012, Visenze ban đầu được "nuôi dưỡng" trong khuôn viên trường trước khi chuyển sang Blk71 vào năm 2013. Ở đó, công ty đã tận dụng cơ sở hạ tầng của hệ sinh thái Singapo. Công ty nhận được hỗ trợ từ IE Singapore cho việc quốc tế hóa và từ Chương trình Thương mại hóa Doanh nghiệp Công nghệ của SPRING, điều này rất hữu ích vì các nhà sáng lập đã khởi động và thử nghiệm nguyên mẫu cho khách hàng ở nước ngoài, như Rakuten ở Đài Loan. Ngày nay, các công ty thương mại điện tử hàng đầu như Zalora, Flipkart, Lazada, Reebonz và Rakuten đang sử dụng công nghệ của Visenze tại các thị trường trên khắp thế giới. Khi ở Launchpad, Visenze đã nhận được tài trợ Series A. Sau khi rời Launchpad, Visenze đã chuyển sang Blk67 gần đó và tiếp tục đóng góp cho cộng đồng Launchpad.
Với đầu tư khổng lồ trong việc thực hiện chiến lược xây dựng hệ sinh thái đổi mới và kinh doanh của Singapo trong thập kỷ qua,việc đánh giá tác động của nó đối với nền kinh tế là rất quan trọng.
Với đầu tư khổng lồ trong việc thực hiện chiến lược xây dựng hệ sinh thái đổi mới và kinh doanh của Singapo trong thập kỷ qua,việc đánh giá tác động của nó đối với nền kinh tế là rất quan trọng.
Các nghiên cứu về các chỉ số và phương pháp tác động chủ yếu tập trung vào các chỉ số đơn lẻ như bằng sáng chế hoặc xuất bản khoa học. Tuy nhiên, các nhà hoạch định chính sách nhận thức được rằng cuộc hành trình từ đầu tư vào các trường đại học/viện nghiên cứu công (IHL/PRI) để thực hiện nghiên cứu và đổi mới công dẫn đến tạo ra tác động lên công nghiệp và nền kinh tế là một quá trình dài và phức tạp liên quan đến nhiều giai đoạn với các bên liên quan và rủi ro khác nhau ở từng giai đoạn. Mặc dù các chỉ số như xuất bản phẩm và bằng sáng chế rất hữu ích để chứng minh sản phẩm sáng tạo của IHL/PRI, nhưng chúng không cho thấy các kiến thức cơ bản của các bằng sáng chế cuối cùng có trở thành sản phẩm mới được thương mại hóa hay không và như thế nào. Do đó, người ta thừa nhận rằng không có một chỉ số nào có thể đưa ra một bức tranh đầy đủ về tác động kinh tế của nghiên cứu khoa học công đối với hệ sinh thái khởi nghiệp và ĐMST.
Để đánh giá tác động toàn diện, Khung đo lường Tác động Nghiên cứu, đổi mới sáng tạo, doanh nghiệp (RIE) được sử dụng trong A*STAR xem xét tính chất phức tạp của chuỗi giá trị RIE, để đo lường đầu ra trung gian và kết quả ở bốn giai đoạn khác nhau, gồm (a) sản phẩm sáng tạo của IHL/PRI, (b) sản phẩm thương mại hóa của IHL/PRI, (c) đổi mới sáng tạo của ngành/doanh nghiệp và (d) phát triển kinh tế. Hình 1 cung cấp một bản tóm tắt về khuôn khổ và các chỉ số thường được các nhà hoạch định chính sách công và doanh nghiệp sử dụng để đo lường tác động ở từng giai đoạn.
1. Sản phẩm sáng tạo của IHL/PRI
Chi tiêu NC&PT, đăng ký sáng chế và bằng sáng chế được cấp thường được sử dụng để đánh giá kết quả sáng tạo của IHL/PRI. Trong thập kỷ qua, chi tiêu NC&PT của Singapo từ 1.029,73 triệu đô la Singapo năm 2004 lên 2.338,71 triệu đô la Singapo năm 2014, với sự gia tăng tương ứng về đơn đăng ký sáng chế và bằng sáng chế được cấp lần lượt là từ 469 và 156 lên 707 và 196.
Trong cùng thời kỳ đó, số lượng công ty khởi nghiệp công nghệ tăng từ 2.800 lên 5.400 (SPRING, 2016). Mặc dù thừa nhận rằng các công nghệ giai đoạn đầu có mức độ không chắc chắn cao hơn so với giai đoạn sau, nhưng lợi ích của nó là lớn hơn rất nhiều. Rõ ràng rằng một nền khoa học tốt là rất quan trọng trong hệ sinh thái khởi nghiệp và ĐMST vì nó cung cấp nền tảng kiến thức/tài sản trí tuệ công nghệ mạnh mẽ cho các doanh nghiệp có thể có khả năng thay đổi cuộc chơi.
Do đó, khu vực công có vai trò quan trọng trong việc đầu tư vào các sản phẩm sáng tạo của các IHL/PRI, đặc biệt là trong các lĩnh vực công nghệ mang tính chiến lược đối với sự thịnh vượng của đất nước nhưng lại đòi hỏi thời gian đầu tư lâu dài hơn so với những lĩnh vực mà khu vực tư nhân có thể chấp nhận.
2. Kết quả thương mại hóa của IHL/PRI
Kết quả thương mại hóa của IHL/PRI ở Singapo đã có xu hướng tích cực trong thời gian từ năm 2004 đến năm 2014. Thu nhập của các tổ chức này từ việc cấp phép (chuyển giao) các tài sản trí tuệ cho các công ty đã tăng lên từ 0,84 triệu đôla Singapo lên 4,99 triệu đôla, trong khi doanh thu từ các sản phẩm và quy trình được thương mại hoá của hoạt động NC&PT ở Singapo đã tăng từ 4,45 triệu lên 29,76 triệu đô la Singapo. Trong thập kỷ qua, chúng ta thấy sự liên kết chặt chẽ hơn giữa các hướng nghiên cứu và các nhu cầu của ngành công nghiệp, và sự gia tăng tương ứng trong kết quả thương mại hóa của các trường đại học/PRI.
Tuy có sự gia tăng về số lượng khởi nghiệp công nghệ trong cùng thời kỳ, nhưng các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 50% doanh nghiệp mới đã ngừng hoạt động ở năm thứ năm tại Singapo. Mặc dù xu hướng tương tự cũng được thấy ở Hoa Kỳ, các tổ chức chuyển giao công nghệ có thể đóng một vai trò lớn hơn trong việc giúp các công ty khởi nghiệp giảm bớt rủi ro thương mại hoá các kết quả NC&PT công thông qua nâng cao mức độ sẵn sàng của công nghệ của họ để đáp ứng các yêu cầu về công nghiệp.
3. Đổi mới sáng tạo của ngành/công ty
Trong khu vực tư nhân, Singapo cho thấy xu hướng tích cực của đầu vào đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp. Chi tiêu NC&PT của khu vực doanh nghiệp đã tăng từ 2.589,99 triệu đô la Singapo trong năm 2004 lên 5.215,66 triệu đô la Singapo vào năm 2014 và số đơn đăng ký sáng chế và bằng sáng chế được cấp tương ứng tăng từ 777 và 433 lên 1.131 và 707. Mức tăng tương ứng được ghi nhận trong kết quả đổi mới sáng tạo của các công ty cùng kỳ, tăng trưởng chắc chắn từ 202,33 và 14.925,22 triệu đô la Singapo lên 465,71 và 25.207,55 triệu đô la Singapo, tương ứng với thu nhập từ việc cấp phép các sáng chế và công nghệ mới của họ được phát triển ở Singapore và doanh thu từ các sản phẩm và quy trình được thương mại hoá của NC&PT được thực hiện ở Singapo.
Mặc dù có sự tăng trưởng tổng thể trong cả đầu vào và kết quả đổi mới sáng tạo của các doanh nghiệp, song NC&PT (khoảng 1,2% đến 1,8% GDP) của khu vực tư nhân vẫn còn nhiều dư địa để cải thiện, so với mức trung bình của OECD là 2,5% GDP (OECD 2013). Do đó cần phải tiếp tục xây dựng năng lực công nghệ và kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước thông qua đào tạo và các mạng lưới Ba đường xoắn (liên kết chính phủ - viện nghiên cứu công - doanh nghiệp).
4. Phát triển kinh tế
Các chỉ số thường được sử dụng để đo lường tác động đến cộng đồng hoặc nền kinh tế là nguồn nhân lực và việc làm được tạo ra bởi các doanh nghiệp khởi nghiệp từ năm 2004 đến năm 2014.
Trong giai đoạn này, tỷ lệ việc làm của các khởi nghiệp ở Singapo đã tăng từ 7,1% (156.500 nhân viên) lên 9,5% (345.400), trong khi số lượng nhà khoa học và kỹ sư của các khởi nghiệp đã tăng từ 18,935 lên 32,835 người.
Các doanh nghiệp khởi nghiệp trong cả lĩnh vực công nghệ và phi công nghệ đã tạo ra nhiều việc làm cho lực lượng lao động địa phương. Tuy chưa có số liệu về đóng góp của họ vào sản lượng, thu nhập quốc dân và GDP, nhưng với tầm quan trọng của các khởi nghiệp, những dữ liệu này cũng như những kết quả đổi mới của công ty (ví dụ như số lượng sản phẩm mới, doanh số bán sản phẩm mới) cần được thu thập, theo dõi, so sánh và phân tích để tạo điều kiện cho việc tăng cường liên tục các công cụ chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp mới khởi nghiệp.
5. Nghiên cứu điển hình
Các nghiên cứu tình huống minh hoạ cho sự thành công của các phương pháp tiếp cận chiến lược của Singapo đối với cải tiến và thúc đẩy doanh nhân. Một trong những liên doanh hợp tác PPP đầu tiên của A*STAR là Chương trình Không gian vũ trụ, bắt đầu năm 2007.
Đây là một ví dụ về cấu trúc hợp tác "Nhiều tổ chức công với nhiều công ty", gồm 8 viện nghiên cứu công thuộc Hội đồng Nghiên cứu Khoa học và Kỹ thuật (SERC) với một tập đoàn công nghiệp bao gồm các nhà Chế tạo Hàng không hàng đầu (OEM) và các công ty hàng không Singapo. Các dự án liên doanh có tính tiền cạnh tranh và phục vụ nhu cầu của ngành công nghiệp. Thông qua chương trình này, các công ty hàng không vũ trụ làm việc song phương với A*STAR về nghiên cứu hợp tác hoặc ủy thác. Một thành viên của tập đoàn là Rolls Royce, đã có mặt tại Singapo từ những năm 1950 và hiện chiếm hơn 15% sản lượng sản phẩm hàng không của quốc gia, với lực lượng lao động địa phương hơn 2.400 người. Công ty đã ký thoả thuận hợp tác đầu tiên với A*STAR năm 2004 và mối quan hệ này đã phát triển mạnh kể từ đó. Rolls Royce đã thành lập một Phòng thí nghiệm Hoàn thiện bề mặt cùng với Viện Công nghệ Chế tạo Singapo (SIMTech) của A*STAR. Hơn 75 dự án hợp tác đã được Rolls Royce và SIMTech phối hợp thực hiện.
Một câu chuyện thành công vang dội xuất phát từ DxD Hub là InvitroCue, một công ty cung cấp các dịch vụ phân tích sinh học sử dụng mô hình dựa trên tế bào và thuật toán hình ảnh. Công nghệ này bắt nguồn từ A*STAR, và được tiếp tục phát triển và xác nhận thông qua hợp tác với các công ty dược phẩm, các nhà nghiên cứu bệnh học và các nhà khoa học nghiên cứu dẫn đầu từ các trường đại học và viện nghiên cứu công. Được thành lập bởi doanh nhân giàu kinh nghiệm, Tiến sĩ Steven Fang, InvitroCue được thành lập vào năm 2012 như là một công ty khởi nguồn (spinoff) của A*STAR. Trong giai đoạn đầu, nó nhận được sự hỗ trợ của A*STAR. Công ty là đối tác ban đầu của DxD Hub khi sàn được triển khai vào năm 2014. Chỉ hai năm sau đó, vào tháng 1/2016, InvitroCue đã được niêm yết công khai trên Sở Giao dịch Chứng khoán Australia. Với mức vốn hóa thị trường trị giá 40 triệu đô la Singapo, công ty đã tăng gấp đôi doanh số bán hàng trong hai năm kể từ 2014. Chiến lược tiếp thị của công ty là bán các mô hình thử nghiệm dựa trên tế bào cho các công ty dược phẩm toàn cầu thông qua các hợp đồng hợp tác và các hợp đồng dịch vụ. Các khoản thu nhập được đảm bảo thông qua chiến lược này được sử dụng để hỗ trợ phát triển dịch vụ bệnh lý số, được triển khai thành công trong các công ty dược phẩm và các bệnh viện toàn cầu. Tầm nhìn "sinh ra ở quy mô toàn cầu" này được sự hỗ trợ của DxD Hub và mạng lưới Ba đường xoắn trong Hệ sinh thái khởi nghiệp và ĐMST của Singapo.
Visenze là một thành viên tích cực của cộng đồng Launchpad @ one-north. Khởi nghiệp này cung cấp giải pháp nhận dạng và tìm kiếm trực quan bằng máy học được phát triển từ các nghiên cứu sâu được tiến hành tại Trung tâm Tìm kiếm Tìm kiếm Cực trị NUS-Tsinghua. Sau khi được tách ra từ NUS vào năm 2012, Visenze ban đầu được "nuôi dưỡng" trong khuôn viên trường trước khi chuyển sang Blk71 vào năm 2013. Ở đó, công ty đã tận dụng cơ sở hạ tầng của hệ sinh thái Singapo. Công ty nhận được hỗ trợ từ IE Singapore cho việc quốc tế hóa và từ Chương trình Thương mại hóa Doanh nghiệp Công nghệ của SPRING, điều này rất hữu ích vì các nhà sáng lập đã khởi động và thử nghiệm nguyên mẫu cho khách hàng ở nước ngoài, như Rakuten ở Đài Loan. Ngày nay, các công ty thương mại điện tử hàng đầu như Zalora, Flipkart, Lazada, Reebonz và Rakuten đang sử dụng công nghệ của Visenze tại các thị trường trên khắp thế giới. Khi ở Launchpad, Visenze đã nhận được tài trợ Series A. Sau khi rời Launchpad, Visenze đã chuyển sang Blk67 gần đó và tiếp tục đóng góp cho cộng đồng Launchpad.